Phân tích truyện cười Nhưng nó phải bằng hai mày

Phân tích truyện cười Nhưng nó phải bằng hai mày

Bài làm

Có ai đó nói rằng: Văn học chính là người thư ký trung thành của thời đại. Qủa không sai chút nào vì văn học luôn phản ánh cũng như khắc họa xã hội, con người trong thời đại đó. Truyện cười là một trong những thể loại truyện kể dân gian vô cùng đặc sắc, truyện lên án, phê phán được một xã hội đồng tiền mà lấn áp đi tất cả. Một trong số truyện cười đó không thể không nhắc đến truyện Nhưng nó phải bằng hai mày.

Khi đọc truyện cười Nhưng nó phải bằng hai mày chúng ta đều nhận thấy được nó dường giống như một màn kịch rất ngắn nhưng hấp dẫn với sự xuất hiện của ba nhân vật đó là Cải và Ngô và quan xử kiện. Cũng giống như các truyện cười khác thì ngay từ phần mở đầu của bài thì tác giả dân gian như cũng đã giới thiệu về một viên lí trưởng có tài xử kiện giỏi ở một làng kia. Cách giới thiệu phiếm chỉ cũng không khác gì những câu truyện cổ tích. Việc sử dụng từ phiếm chỉ nhưng cũng đã tăng được ý nghĩa khái quát và mang tính phổ biến ở nhiều vùng, nhiều đối tượng

Tình tiết và diễn biến của sự việc được kể rất ngắn gọn trong truyện cười. Nhân vật Cải và Ngô đánh nhau rồi mang nhau ra kiện. Lúc đó Cải sợ kém thế cho nên cũng đã nhanh trí lót trước thầy lý năm đồng. Ngô lúc này cũng đã biện chè lá những mười đồng. Cứ theo mạch kể của câu truyện chúng ta đã tìm thấy tình huống có vấn đề đồng thời cũng lại buộc người nghe phải chú ý xem trong tình huống nà thì một thầy lý vô nổi tiếng xử kiện giỏi sẽ xử vụ kiện này như thế nào?

Xem thêm:  Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ Quê hương: Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới

Trong khi xử kiện thầy lí cho Ngô thắng, còn Cải lúc đó bị lôi ra đánh mười roi. Điều này khiến cho Cải đã lo lót thầy trước và được thầy nhận lễ cho nên Cải vô cùng bất ngờ từ thế chủ động sang thế bị động trước lời phán xét của thầy lý xử kiện. Khi bất ngờ đó được thực thì thì Cải nhanh chóng xòa năm ngón tay và ngắn mặt nhìn thầy lý. Đọc đến đây ai cũng đã hiểu được hàm ý của nhân vật Cải vì Cải đã lót tay, đi thầy lý trước rồi. Trong truyện thì lẽ phải ở đây cũng được xem xét bằng tiền.

phan tich truyen cuoi nhung no phai bang hai may - Phân tích truyện cười Nhưng nó phải bằng hai mày

Phân tích truyện cười Nhưng Nó Phải Bằng Hai Mày

Cho đến đây mâu thuẫn dường như cũng đã lên đến cao trào Bởi Cải dường như đã lật bài ngựa. Người đọc cũng không biết và tò mò không biết thầ lý sẽ xử phạt ra sao. Thế rồi cao trào lại bất ngờ đáp lại hành động kì quặc của Cải đó chính là hành động cũng kì quặc của thầy lí. Tác giả dân gian thật tài tình biết bao nhiêu bởi sự kết hợp từ lời nói và hành động giữa hai nhân vật cũng đã tạo nên một tín hiệu đặc biệt, đó chính là một thứ mật ngữ mà chỉ có người trong cuộc mới có thể hiểu được. Thêm vào đó thì lời được phát ngôn công khai cho tất cả mọi người cùng nghe. Còn về mật ngữ thì chỉ có hai người trong cuộc mới biết được rõ. Ta nhận thấy được hành động kì quặc đó được giải mã bởi lời nói của thầy lí không quên kèm theo hành động đó là thầy lí cũng xòe năm ngón tay trái và từ từ úp lên trên năm ngón tay phải mặt nói rằng: Tao biết mày phải…..nhưng nó lại phải…..bằng hai mày.

Xem thêm:  Soạn văn Thái sư Trần Thủ Độ chương trình ngữ văn 10

Với đoạn cao trào này thì ta nhận thấy được tay – tiền – lẽ phải lại có một mối quan hệ mật thiết. Hình ảnh ngón tay cũng đã lại thể hiện được số lượng, còn tiền là dùng để đo lẽ phải. Khi tiền càng nhiều thì lẽ phải cũng càng nghiên về đó và ngược lại. Cho nên khi Cải có 5 đồng nhưng Ngô có 10 đồng thì lẽ phải chắc chắn về phía Ngô. Truyện khiến chúng ta phải bật cười thế nhưng đằng sau tiếng cười đó lại là một sự chế giễu và nói ra một sự bất công trong xã hội lúc bấy giờ – một xã hội nói như Vũ Trọng Phụng đó là “một xã hội chó đểu”.

Truyện Nhưng nó phải bằng hai mày là một truyện cười vô cùng ngắn gọn thế nhưng lại mang được sự kịch tính. Không chỉ qua với tình huống truyện đã giúp cho chúng ta bật cười. Sau tiếng cười đó chính là một sự suy ngẫm vầ đời, về người. Chỉ trích một xã hội coi trọng đồng tiền là nhất khiến đi mất đi sự công bằng.