Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của nhà thơ Huy Cận
Bài làm:
Thi ca và nhạc họa có thể nói có nhiều sự gắn kết với nhau. Khi người nghệ sĩ tung cảm hứng và viết nên thơ, thì chất thơ đi vào chất nhạc, chất nhạc truyền cảm xúc đến con người. Trong lịch sử của nền văn học Việt Nam, viết về đề tài con người lao động có rất nhiều tác phẩm. Ngày đất nước còn bị chia cắt, Nguyễn Thành Long đã viết “Lặng lẽ Sa Pa” gợi nên hình ảnh anh thanh niên lao động trong thầm lặng. Cùng nguồn cảm hứng đó, nhà thơ Huy Cận đã viết nên bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” với bức tranh lao động của con người miền biển đầy sôi nổi, khí thế. Đó là một bài thơ in trong tập “Trời mỗi ngày lại sáng” (1958). Khi Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh và từ chuyến đi ấy mà hồn thơ Huy Cận mang cảm hứng dào dạt tình yêu quê hương đất nước, con người lao động và niềm vui trước cuộc sống mới của dân tộc.
Huy cận là một nhà thơ Cách mạng, thơ ông giàu tính hàm súc và ý nghĩa, có sự kết hợp giữa cổ điển Đường thi và có chất suy tưởng đậm đà triết lý. Phải nói rằng, thơ Huy Cận luôn thấm đẫm một nỗi buồn, một tâm trạng, nhưng ở mỗi nỗi niềm lại xuất hiện sắc thái riêng. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” mở ra với một bức tranh rộng lớn, không gian bao la với cảnh mặt trời, cảnh biển, mây gió, trăng sao. Thời gian vẫn tuần hoàn theo nhịp, vũ trụ từ hoàng hôn đến bình minh còn thời gian của đoàn thuyền ra khơi là từ lúc mặt trời xuống biển đến lúc đội biển nhô lên cao. Thiên nhiên và vũ trụ như điểm chung một nhịp, cứ theo điệu chảy tuần hoàn của thời gian mà con người đi vào lao động.
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Cảnh hoàng hôn trên biển mang một nét động nhưng rất tĩnh, lấy cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ và con người lao động mới trong công cuộc xây dựng đất nước. Công việc đánh cá của ngư dân Quảg Ninh trên biển Hạ Long đã được nhà thơ thể hiện thật tinh tế. Thiên nhiên, đất trời và con người hòa quyện với nhau trong khoảng không gian bao la, bát ngát, kì vĩ và bay bổng. Cảnh hoàng hôn dần buông cũng là lúc đoàn thuyền khởi hành để tiếp tục công việc bám biển, phục vụ đời sống. Mở đầu bài thơ, hình ảnh mặt trời lặn trên biển được nhà thơ gợi tả thật độc đáo và đầy thú vị. Hai câu thơ mở đầu có những liên tưởng táo bạo, bất ngờ được nhà thơ dùng phép so sánh để gợi tả. Mặt trời trong tranh như một “hòn lửa” khổng lồ đỏ rực đang lặn xuống biển sâu vào khoảnh khắc cuối ngày để nhường không gian cho trời đêm. Vũ trụ càng trở nên rộng lớn, huy hoàng. Những đường sóng lượn dài như “đã cài then”, đêm tối bao trùm trời đất, hình ảnh sóng như hai cánh cửa lớn đang đóng sập lại dữ dội, mạnh mẽ vô cùng. Cảnh đêm được tác giả gợi nên với một ấn tượng mạnh, vừa đột ngột, vừa nhanh chóng. Hòn lửa mặt trời đã hết nhiệm vụ ban ngày của nó, đành lặn khuất ra chân trời xa và chìm xuống biển trong sự hùng vĩ, tráng lệ. Trả lại thiên nhiên tối dần, “đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi” với một khí thế vui tươi, mạnh mẽ, hăng hái. Từ “lại” đã cho thấy rằng, hoạt động của con người trên biển đã được lặp đi lặp lại, từ ngày này qua tháng khác, dường như đó là một sự quen thuộc, một công việc không có gì mới lạ đối với con người. Công việc ra khơi đánh cá là công việc hằng ngày, thường xuyên của những người dân biển. Chỉ một từ ngữ đơn giản nhưng đã gợi ra nhiều ý nghĩa cho dòng thơ, là nỗi hào hứng tràn đầy hy vọng và niềm vui, niềm hăng say lao động của người miền biển. Một vẻ đẹp khỏe khoắn, thơ mộng và đầy lãng mạn, hình ảnh ẩn dụ “câu hát căng buồm” xuất hiện mang nét sôi nổi, mạnh mẽ của không khí. Đó là những chàng trai miền biển vừa chèo thuyền ra khơi, vừa cất cao câu hát. Tiếng hát mang đến niềm vui, sức mạnh cho họ, tiếng hát vang xa, vang mãu cùng ngọn gió, hòa cùng cánh buồn. Đó cũng là tiếng hát của tấm chân tình đầy ngọt ngào, chan chứ niềm vui của người lao động. Họ sung sướng khi được làm chủ thiên nhiên, đất nước, làm chủ cuộc sống tươi đẹp và công việc mà họ gắn bó suốt đời.
Những câu ca, lời hát như thể hiện một ước mơ cao đẹp, ước mơ muôn đời của con người lao động chài lưới vùng biển. Họ mong đánh bắt được nhiều hải sản, nhiều tôm cá. Những ước vọng ấy chỉ là ước mơ đời thường hòa vào câu hát như một bản ca hào hùng:
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Tiếng hát cũng là tiếng lòng, khung cảnh chợt hiện ra một cách đầy lãng mạn, chân thực. Đàn cá bơi ngang dọc trên biển như đan dệt vào tấm lưới của con người, thực hiện ước mơ, khát vọng cuộc sống trù phú của những người chài cá nơi đây. Điệp từ “biển đông” như là một sự đánh dấu chủ quyền biển của nước Việt Nam. Nghệ thuật ẩn dụ, so sánh được nhà thơ sử dụng linh hoạt, gợi tả màu sắc và hình dáng của từng sự vật trên biển một cách rõ nét. Con người còn gọi cá bằng một lời mời thân thiết, gần gũi “đoàn cá ơi!” như một nghệ thuật nhân hóa mà nhà thơ đã dùng. Đó chính là ước mơ, là niềm tin, mong đợi một chuyến ra khơi bội thu, thắng lợi.
Vẻ đẹp lao động và con người lao động trong thơ bao giờ cũng chân thực và mang lại nhiều ý nghĩa sâu xa. Những con người ấy được Huy Cận gây dựng nên một cách phong phú, tinh tế, đời thường, được thể hiện trong không gian kì vĩ, tráng lệ của khung cảnh thiên nhiên miền biển.
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Nguồn cảm hứng lãng mạn của Huy Cận đã tạo nên bức tranh đầy thú vị, mơ mộng, gợi nên những hình ảnh lộng lẫy, rực rỡ trong cảnh biển rộng lớn, huyền ảo vô cùng. Với thủ phát nghệ thuật nhân hóa, lời thơ giàu sức tưởng tượng độc đáo đã làm nên sự kết hợp hài hòa giữa “thuyền ta lái gió” và “buồm trăng”. Trăng làm buồm, gió thổi dẫn thuyền đi, còn trời “mây cao với biển bằng” đưa thuyền ra xa. Đoàn thuyền lại tiếp tục công việc của mình, “ra đậu dặm xa dò bụng biển” trong sự hăng say, đầy năng lượng. Họ là những con người yêu lao động, tích cực làm việc giữa bao la biển trời để mang lại những thành quả thắng lợi. Ở khổ thơ trên đã diễn tả tâm trạng tươi vui, khí thế và đầy lãng mạn của đoàn thuyền đánh cá trên biển Đông.
Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá
Sự giàu có, trù phú của biển đã được nhà thơ gợi tả đầy sắc thái, đa màu sắc và còn rất duyên dáng, rực rỡ, lấp lánh như một bức tranh sơn màu với chủ đề bể cá khổng lồ:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé,
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Người xưa từng tự hào rằng, nước Việt Nam là một đất nước có “rừng vàng biển bạc”, tài nguyên vô cùng phong phú, đa dạng. Ở khổ thơ thứ 4, nhà thơ hướng tầm nhìn xuống biển để phản chiếu sự trù phú của biển Đông. Những loài cá khác nhau được gọi tên :”cá nhụ cá chim cùng cá đé”, “cá song”… tất cả đều được thể hiện rất độc đáo, tự nhiên, có hình dáng và hoạt động cụ thể. Tác giả còn gọi cá là “em” gợi nên môt sự thân thiết, tinh từ qua hình ảnh “cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”, lấp lánh trên làn nước xanh vắt. Biển đêm với ánh trăng tan đã in mình xuống lòng biển, cảnh vật ở đây cũng chuyển động lung linh, huyền ảo như một thế giới lạ, có trong cổ tích. Đó chính là khung cảnh lao động trong “đêm thở” – một hình ảnh nhân hóa gợi nên sự im ắng của đêm chỉ có những tiếng động nhẹ “sao lùa nước Hạ Long”, những ánh sao rơi trên mặt biển, trôi theo làn sóng vùng biển Quảng Ninh.
Bài ca ra khơi vừa dứt, thì bài ca gọi cá vào lại vang lên thấm đượm vẻ vui tươi, náo động:
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao,
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Công việc đánh cá dù vất vả, đầy gian nguy, có thể nói đánh cá như đi đánh trận, vừa hào hùng, đầy khí thế, vừa có những mong ước về sự thắng lợi, gặp may mắn. Thiên nhiên đã tham gia cùng con người suốt cả chặng đường. Phải chăng, vì thiên nhiên quá đẹp, quá lãng mạn, trữ tình làm lòng người trở nên phấn chấn, hào hứng, con người sẵn sàng lao động trong niềm say mê, đầy nhiệt huyết. Đoàn thuyền cất cao tiếng hát để gọi cá vào lưới. Đó là biện pháp nhân hóa mà nhà thơ sử dụng một lần nữa để gợi tả không khí vui tươi, chan chứa lời ca của đoàn thuyền. Sóng biển cứ lăn tăn, có cả bóng trăng trôi theo dòng nước, cứ thế đập vào thuyền tạo nên tiếng “gõ thuyền” vang dậy. Nhưng không phải người mà là “nhịp trăng cao”. Một hình ảnh đầy sức tưởng tượng phong phú nhưng cũng tinh tế vô cùng. Qua nhịp thở về đêm, cùng sự tác động của trăng đẩy nước vào thuyền đã xua đàn cá vào lưới. Nghệ thuật so sánh “biển” với “lòng mẹ”đã gợi nên một tình cảm cao quý, nói lên niềm tự hào to lớn của dân tộc. Với giọng thơ ấm áp, chan chứ nghĩa tình, nhà thơ Huy Cận đã thể hiện một ý nghĩa sâu sắc: Việt Nam nên tự hào khi có biển rộng và nguồn tài nguyên trù phú. Biển là một nguồn sống quý giá đã nuôi dưỡng cuộc sống nhân dân, làm giàu đẹp cho đất nước.
Vũ trụ đã đi vào quá nửa đêm, cũng là thời điểm chín muổi để kéo mẻ lưới đã giăng và thu hoạch mẻ cá lớn:
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng,
Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.
Cảnh buông lưới, sự chờ đợi, hưởng thụ cảnh trời đêm và cả cảnh kéo lưới đều được tác giả khắc họa rất rõ ràng, tinh tế, đầy chất thơ. Khung cảnh kéo lưới được tả rất khái quát, rất thực tế:”ta kéo xoăn tay chùm cá nặng”. Đó là một hình ảnh cụ thể cho thấy một chuyến ra khơi bội thu với “chùm cá nặng” trên tay, phải kéo hết sức, kéo liên tục để vớ được hết mẻ cá. Những con cá “vẩy bác đuôi vàng lóe rạng đông” là một hình ảnh đầy lãng mạn, đầy màu sắc và có tính ẩn dụ nhưng cũng xuất phát từ thực tế qua tưởng tượng thú vị của Huy Cận. Trong ánh nắng ban mai tinh khiết, hiện lên trăm nghìn con cá rực rỡ, lấp lánh với “vảy bạc đuôi vàng” xếp đầy ắp trên thuyền khiến những con thuyền trĩu nặng, và về bến cho “kịp trời sáng”.
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Sau một chuyến đi suốt đêm, đoàn thuyền đánh cá lại trở về trong bình minh. Nếu như những công việc khác, người ta làm việc vào ban ngày và đi ngủ vào ban đêm thì đối với những người ra khơi họ lại làm ngược lại. Người ta chọn không gian đêm để đánh cá thuận lợi hơn và mang lại thành quả tốt hơn. Vẫn câu hát, những lời hát xuyên suốt bài thơ gợi nên sự vui tươi, hào hứng của con người. “Câu hát căng buồm với gió khơi” cất cao lên, trong chuyến trở về,tiếng hát lúc này chính là niềm vui thắng lợi sau một chuyến ra khơi đầy ắp cá tôm. Khi trở về, con thuyền lại “chạy đua cùng mặt trời”. Hình ảnh “mặt trời đội biển nhô màu mới” đang nhô lên trên sóng nước xanh thật đẹp, thật hùng vĩ. Cuối bài thơ, nhà thơ đã gợi tả nên hình ảnh “mắt cá huy hoàng” qua nguồn tưởng tượng phong phú, có tính sáng tạo của tác giả. Sự huy hoàng trong mắt cá chính là thành quả lao động, thành quả sau một chuyến ra khơi đầy mệt nhọc. Sự huy hoàng đó cũng chính là huy hoàng của ánh sáng mặt trời, sáng rực, tự hào, lộng lẫy “muôn dăm phơi” của đoàn thuyền và con người.
Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá đã khắc họa thành công khung cảnh ra khơi vào lúc chiều muộn của vùng biển Quảng Ninh. Huy Cận đã dùng nhiều hình ảnh đẹp, tráng lệ và sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động để tạo nên dòng thơ mang nhiều giá trị. Bằng tưởng tượng phong phú, đầy tính sáng tạo, độc đáo, bài thơ mang âm hưởng khỏe khoắn, hào hùng, lạc quan đã tạo nên chất thơ giàu cảm hứng. Qua bài thơ, nhà thơ như đang bộc lộ niềm tự hào, niềm vui sướng trước hoàn cảnh của đất nước và cuộc sống con người.
Bùi Phương Thảo