Văn mẫu THCS

Phân tích bài thơ Bếp Lửa của nhà thơ Bằng Việt tuyệt hay

Phân tích bài thơ Bếp lửa của nhà thơ .

Bài làm:

“Ngó lên nạt luộc mái nhà

Bao nhiêu nạt luộc nhớ ông bà bấy nhiêu.”

(Ca dao)

Viết về tình cảm muôn thuở loài người đó là tình bà cháu,tình cảm gia đình, tình quê hương, đất nước, ta bắt gặp Hoàng Phủ Ngọc Tường với dòng sông quê, những câu hát. Hay những cảm xúc trong trẻo, tươi đẹp trong ca dao, dân ca thấm đẫm hồn người… Nhưng có một điều đặc biệt, khi tìm đến những lời thơ của Bằng Việt qua bài thơ “Bếp lửa” viết về tình bà cháu thiêng liêng, hồn ta lại run động, băn khoăn trước đức hy sinh của người bà tần tảo và tình bà cháu cao đẹp.

Văn chương ra dời giữa những niềm vui đan xen nỗi buồn trong . "Văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn"(Thạch Lam). Chính vì thế, văn giống như suối nguồn đầy cảm hứng tạo nên sự sống trong trẻo, tươi mới. Những dòng cảm xúc trong thơ văn như đắp thêm vào hồn ta những tình cảm ta sẵn có và làm giàu thêm những thứ mà ta chưa có. Đối với Bằng Việt – nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ đã có những tình cảm thân thương đối với người bà yêu quý của mình. Những năm tháng xa quê, cư trú tại nước ngoài chính là nguồn cảm hứng đã thôi thúc nhà thơ viết nên những dòng thơ đầy xúc động và chan chứa tình người. Bài thơ “Bếp lửa” là những dòng tâm sự chân thật, là tình bà cháu thiêng liêng bất diệt, là tình yêu hương được gửi gắm tinh tế qua hình tượng bếp lửa đơn sơ, bình dị. Cuộc sống xa quê mang vị nhớ nhà, giã từ xứ lạnh đầy sương tuyết buốt giá, Bằng Việt lại chạnh lòng, khắc khoải và nhớ đến hình ảnh cái bếp lửa thân thương, ấm áp của quê nhà. Cùng với đó là hình ảnh người bà và những tuổi ấu thơ khó phai nhòa trong lòng tác giả

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

Rất tự nhiên, rất giản dị, mở đầu bài thơ là một hình ảnh ấm áp, nồng nàn biết bao. Bếp lửa hiện lên mang hơi vị ấm nồng của ngọn lửa,mang hơi ấm của tình thương, của người bà thân yêu. Từ nhỏ đã sống với bà, với cuộc sống khó khăn nơi mùa đông lạnh giá, có lẽ vì thế mà hình ảnh bếp lửa đã trở thành tiêu điểm khó phai mờ của nhà thơ. Điệp từ “một bếp lửa” xuất hiện ngay khổ thơ đầu đã trở thành một điệp khúc với giọng điệu êm đềm, sâu lắng. Nhà thơ như đang khẳng định một dấu ấn không bao giờ quên trong tâm trí mình. Hình ảnh bếp lửa ấm cúng, lại còn có bà đã gợi nên nỗi niềm nhớ quê sâu sắc trong lòng. Ở làng quê thưở nhỏ, tác giả đã quen sống với những thứ bình dị, thân thương,và dường như “bếp lửa chờn vờn sương sớm” đã là một thứ quá quen thuộc đối với nhà thơ và đối với mỗi gia đình ở làng quê Việt Nam vào mỗi buổi sáng. Giữa cái lạnh giá của tiết trời, lại có một cái bếp “chờn vờn” trong “sương sớm” đã gợi nên một cảm giác ấm áp lạ thường, thật thân thương, gần gũi, “ấp iu nồng đượm”. Từ láy “chờn vờn” đã thể hiện một không gian mờ ảo, khói bếp ẩn hiện lờ mờ trong làn sương sớm và ánh ban mai gợi nên nỗi nhớ bập bùng trong lòng tác giả. Ở đâu đó, có một bàn tay khéo léo, “ấp iu”, với tấm lòng chi chút của người nhóm lửa. Hình ảnh người bà xuất hiện “cháu thương bà biết mấy nắng mưa”, tình cảm nhà thơ được bộc rõ hơn. Hai từ “nắng mưa” như đang gợi tả một sự khó nhọc, một thời gian dài đằng đẵng, triền miên với bao vất vả trong cuộc đời người bà. Nhà thơ như thương cảm với người bà thân yêu của mình, thương bà khuya sớm tảo tần ngày này qua tháng khác để chăm bẵm đứa cháu thơ ngây. Ở ba câu thơ đầu, Bằng Việt đã khái quát được tình cảm của người cháu đối với cuộc đời lam lũ, khó nhọc của bà và cùng với đó chính là mạch nguồn cảm xúc đang dâng trào với những kí ức tuổi ấu thơ sống cùng bà và bên bếp lửa:

Xem thêm:  Soạn bài Chiếu cầu hiền lớp 11

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,

Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!

Những năm tháng gian khổ sống trong cảnh đói nghèo, nhà thơ đã quá quen với mùi khói bếp của bà, “mùi khói” cay nhèm của bếp rơm, bếp rạ đã đi sâu vào kí ức của cháu. Những ngày thơ bé, loạn lạc, cháu đã ở cùng bà trải qua bao gian khó của cuộc sống thường nhật. Đó cũng là khoảng thời gian cay cực, thiếu thốn và khủng khiếp bởi bóng đen ghê rợn bởi nạn đói năm 1945. “Lên bốn tuổi”, độ tuổi còn quá nhỏ nhưng nhà thơ đã hiểu hết được sự thực trong cuộc sống lúc bấy giờ. tàn khốc, thực dân đô hộ trên đất nước, trong làn khói sương chứa đầy kỉ niệm, Bằng Việt như đang nhớ lại những hồi ức đau thương nhất cuộc đời khi phải chịu cảnh “đói mòn đói mỏi”, lại thấp thoáng xuất hiện hình ảnh người bố “đi đánh xe khô rạc ngựa gầy”, vất vả sớm hôm. Tất cả như hiện về trong tâm trí người cháu, không rõ ràng, “chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu”. Hình ảnh bếp lửa và người bà hiện ra trong nỗi nhớ ngậm ngùi, nhớ thương. Và rồi, khi nhớ về cuộc sống khi xưa ấy, những tháng năm gian khổ, đầy bi thương, nhà thơ không khỏi xúc động “nghĩ đến bây giờ sống mũi còn cay”. Tuổi thơ của tác giả đã có quá nhiều gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn. Và rồi, cảm xúc hiện tại cùng kí ức xưa hòa lẫn, nhà thơ lại rung động, cay cay

Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!

Mẹ cùng cha công tác bận không về,

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,

Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?

Bếp lửa hiện diện cho tình bà cháu ấm áp, đậm đà. Đó chính là chỗ dựa tinh thần, sự cưu mang, đùm bọc chi chút của người bà, sưởi ấm và vun đắp tình thương cho cháu suốt thời thơ.  “Tám năm ròng” sống cùng bà là tám năm cháu nhận được tình yêu thương vô bờ, sự nuôi dưỡng, dạy bảo của người bà mến yêu. Đó cũng là những kỉ niệm về người bà tần tảo, chắt chiu nhóm lên ngọn lửa tình thương, ngọn lửa ấm áp để nuôi dưỡng, bao bọc đứa cháu. Công ơn to lớn của người bà khiến cháu phải :”nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”. Người cháu vẫn luôn biết ơn và yêu thương người bà còm cõi, cụi lui của mình. Bà và bếp lửa là chỗ dựa tinh thần cho cháu, bà nhóm bếp, bếp lửa quê hương, bếp lửa ấm áp, bếp lửa của tình thương, tình cảm bà cháu. Và từ bếp lửa, nhà thơ lại nhớ về những năm tháng tuổi thơ sống bên bà với những kỉ niệm đáng nhớ – kỉ niệm gắn bó với cánh đồng cùng con chim tu hú mỗi độ hè về. Bếp lửa đã đánh thức cả kỉ niệm tuổi thơ, ở đó có hình ảnh người bà và hình ảnh quê hương. Tiếng chim tu hú như đang giục giã, khắc khoải một điều gì da diết, bồn chồn khiến tâm hồn nhà thơ trỗi dậy những hoài niệm nhớ thương. Âm thang tiếng kêu của con tu hú đã hòa vào dòng hồi ức đẹp đẽ của tác giả, gợi chiều sâu và nỗi nhớ trong những kỉ niệm và nỗi nhớ thương bà cứ thăm thẳm trong lòng. Đó là một cách viết đầy sáng tạo của Bằng Việt, tiếng chim như nhập vào mảnh hồn tuổi thơ của người cháu để làm xuất hiện hình ảnh người bà thương cháu, thương con. Bà là cha, vừa là mẹ và cũng là người bà thân thương nhất của đứa cháu trong những tháng năm gian khổ, đói kém.

Xem thêm:  Kể về một kỉ niệm sâu sắc về tình bạn


phan tich bai tho bep lua cua nha tho bang viet tuyet hay - Phân tích bài thơ Bếp Lửa của nhà thơ Bằng Việt tuyệt hay

Phân tích bài thơ Bếp lửa

“Bếp lửa” là hình ảnh xuyên suốt bài thơ, thể  hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Nghệ thuật đan xen kể và tả sinh động đã thể hiện tình yêu thương, lòng biết ơn của cháu đối với bà. Hình ảnh bà đã đọng lại trong kỉ niệm của người cháu:

 Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh

Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:

“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,

Mày có chớ kể này kể nọ,

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!

Những hình ảnh được Bằng Việt gợi tả đậm chất hiện thực, với thành ngữ “cháy tàn cháy rụi’được sử dụng linh hoạt trong thơ đã đem đến về hình ảnh làng quê hoàng tàn bởi khói lửa và sự tàn phá của chiến tranh. Cuộc sống đời thường còn chứa đựng nhiều tình người, khung cảnh tan tác do hậu quả của chiến tranh đã ập đến, “làng xóm bốn bên trở về lầm lụi/ đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh”. Dù nghèo, dù cuộc sống đói kém muôn phần, trên cái nền bị chiến tranh hủy diệt, tàn phá lại xuất hiện sự cưu mang, đùm bọc của làng xóm đối với hai bà cháu. Đó chính là vẻ đẹp tình người đang tỏa rạng trong khung cảnh chiến tranh. Nhưng điều khiến nhà thơ xúc động và cảm phục nhất chính là người bà, một mình bà dù đã già, yếu ớt nhưng vẫn mạnh mẽ, kiên cường chống lại mọi gian khó thời chiến tranh, nuôi dưỡng đứa cháu thơ nên người. Và đặc biệt, bà con dặn cháu:”mày có viết thư chớ kể này kể nọ/ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên”. Một thân bà gồng mình lo toàn mọi việc, bà chính là hậu phương vững chắc của tiền tuyến, bà lo chu toàn mọi việc ở nhà để người bố yên tâm kháng chiến, đánh đuổi kẻ thù. Trong từng lời thơ, hình ảnh người bà bao giờ cũng xuất hiện. Có thể thấy, nhà thơ đang gửi gắm một tình yêu chan chứa, giàu cảm xúc đến  bà. Đó là lòng  biết ơn, niềm tự hào của người cháu đã trưởng thành nhớ về bà thân yêu.

Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,

Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,

Một ngọn lửa chứa dai dẳng…

 

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,

Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…

Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!

Thơ chống Mỹ luôn cao trào và mãnh liệt, nhưng cũng giàu suy tư và tình cảm. Ngọn lửa từ  tay bà mang bao yêu thương, trìu mến đã nuôi dững cháu lớn khôn. Và cũng từ ngọn lửa ấy, cháu nhận ra niềm tin vào ngày mai tươi sáng mà hiểu được rằng, bà chính là linh hồn thiêng liêng, cao cả, một con người vất vả, gian lao mà nghĩa tình. “Rồi sớm rồi chiều”, lúc nào cũng thế, bà vẫn nhóm lên ngọn lửa để sưởi ấm căn nhà, nuôi dưỡng tâm hồn đứa cháu. Điệp từ “một ngọn lửa” lại lặp lại như thể hiện một tấm lòng chan chứa yêu thương, ngọn lửa ấy lòng bà luôn ủ sẵn”, “chứa niềm tin dai dẳng”. Đó là ngọn lửa ấm áp tình thương, ngọn lửa của niềm tin dai dẳng, bền chặt vào tương lai của cuộc kháng chiến, của sự sống âm thầm mà mãnh liệt. Trong bài thơ có đến mười lần nhắc đến hình ảnh bếp lửa, và cùng hiện diện với nó chính là hình ảnh người bà khuya sớm tảo tần. Ở đoạn thơ sau, nhà thơ dùng một loạt điệp từ “nhóm” để liệt kê hết những công dụng của bếp, nhóm “bếp lửa ấp iu nồng đượm”, “niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi”, “niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui”, “dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”… Bếp lửa ấy gắn liền với mỗi khó khăn, vất vả đời bà. Nhóm bếp lửa chính là thắp sáng niềm vui, niềm yêu thương mà bà dành cho cháu và cho mọi người. Ở cuối đoạn thơ, nhà thơ còn dùng một câu cảm thán “ôi kì lạ và thiêng liêng- bếp lửa! Để nói lên sự kì diệu của ngọn lửa tình thương, tỏ thái độ yêu thương đối với hình ảnh bếp lửa thân quen cùng người bà hiền dịu. Bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn truyền lửa cho thế hệ sau.

Xem thêm:  Viết một bức thư cho người bạn ở xa

Tuổi thơ đầy kỉ niệm đã lùi xa, chiến tranh đã qua, người cháu lớn khôn và rời xa bà mang bao nhung nhớ:

Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:

– Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?…

Lòng kính yêu, tự hào về bà, về quê hương đất nước đã cùng cháu lớn khôn. Người cháu năm xưa đã trưởng thành và bay đến những chân trời mới có “khói trăm tàu”, “lửa trăm nhà”, “niềm vui trăm ngả” nhưng đối với cháu, bếp lửa của bà vẫn luôn hiện diện trong tâm trí mãi không nguôi. Hình ảnh bà và bếp lửa luôn thường trực trong cháu,gợi một nỗi nhớ về hoài niệm xưa, nhớ về người bà đã thay cha mẹ nuôi mình thuở nhỏ. Thời thế đổi thay, nhiều thứ hiện đại được tiếp nhận vào cuộc sống nhưng đối với nhà thơ, bếp lửa vẫn là thứ thiêng liêng, bất diệt bởi ở đó có hình ảnh người bà đáng quý của ông. Điệp từ “trăm” đã mở ra một thế giới mới mẻ, rộng lớn, cháu được tiếp nhận cuộc sống với những niềm vui lạ. “Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở/ sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”. Mỗi ngày cháu đều nhớ về bà, nhớ về bếp lửa của bà, đó là tất cả tuổi thơ của cháu. Hình ảnh ấy đã trở thành một hình tượng thiêng liêng, cao quý, làm ấm lòng nhà thơ, nâng đỡ ông trên những nẻo đường đời.

Từ những suy ngẫm của người cháu, bài thơ đã biểu hiện một triết lý sâu sắc: Những thứ thân thiết, gắn bó trong tuổi thơ của mỗi người đều có sức tỏa sáng, đó chính là nguồn động lực lớn nâng bước con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình yêu đất nước bắt nguồn từ tình cảm gia đình nồng hậu, thân thiết, từ những gì gần gũi, bình dị nhất. Với sự kết hợp tinh tế giữa biểu cảm mà miêu tả, tự sự và bình luận, giọng điệu tâm tình, tự nhiên, tha thiết và chân thành. Bài thơ “Bếp lửa” của nhà thơ Bằng Việt đã thành công trong việc sáng tạo hình ảnh bếp lửa – hình ảnh vừa thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Và ở đó còn có tình yêu người bà đằm thắm, ân tình, sâu sắc.

Bùi Phương Thảo

Post Comment