Cảm nhận về bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
Bài làm
Tố Hữu là một trong những nhà thơ nổi tiếng của nền thơ ca Việt Nam hiện đại, ông được coi là cây đại thụ của nền thơ hiện đại của nước ta. Những tác phẩm thơ của ông mang tinh thần đại chúng rộng lớn, hướng đến cái ta chung với những lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của con người cách mạng, của cả dân tộc, luôn đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và có tính chất toàn dân. Một trong những tác phẩm tiêu biểu, có độ phổ biến sâu rộng nhất của ông trong lòng công chúng có thể kể đến Việt Bắc. Bà thơ khắc họa lại một thời đại cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh hùng, nhất là nghĩa tình gắn bó thắm thiết của những người kháng chiến với Việt Bắc, với nhân dân, đất nước. Bài thơ đậm tính dân tộc, làm dào dạt thêm tình yêu quê hương đất nước trong tâm hồn mỗi con người.
Cảm hứng chủ đạo của tác phẩm là cảm hứng lịch sử dân tộc, hướng về những điều lớn lao, tầm vóc nhưng khi đi vào tiểu tiết, đi vào từng tứ thơ trong tác phẩm lại mang lại cho độc giả một cái nhìn mới mẻ hơn, một khía cạnh độc đáo, đó là sự vận dụng những thể thơ truyền thống của dân tộc song hành khi sáng tác nội dung thơ, sử dụng từ ngữ với những cách nói quen thuộc tạo nên sự gần gũi, đầy xúc cảm. Qua tác phẩm có thể thấy được thơ Tố Hữu là đỉnh cao của thơ trữ tình chính trị, là sự kết hợp hài hòa hai yếu tố cách mạng và dân tộc.
Tháng 10 – 1954, những người kháng chiến từ căn cứ miền núi về miền xuôi, Trung ương Đảng quyết định rời chiến khu Việt Bắc về lại thủ đô. Nhân sự kiện có tính chất lịch sử ấy, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ Việt Bắc, buổi chia tay đầy lưu luyến đó khiến Tố Hữu thương nhớ khôn nguôi, chẳng thể nào quên được. Diễn biến tâm trạng được tổ chức theo lối đối đáp giao duyên trong ca dao – dân ca: bên hỏi, bên đáp, người bày tỏ, người hô ứng. Hỏi và đáp điều mở ra bao nhiêu kỷ niệm về cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh hùng, bao nỗi niềm nhớ thương.
Hoàn cảnh sáng tác tạo nên một sắc thái tâm trạng đặc biệt:
“ Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
Những hình ảnh tràn đầy niềm xúc động, bâng khuâng không nói nên lời. Cuộc chia tay của những người đã từng gắn bó, biết bao kỷ niệm ân tình thuỷ chung, sao nói quên là quên được. Điều đặc biệt được thể hiện trong tác phẩm này đó là chuyện ân tình cách mạng được Tố Hữu thể hiện khéo léo như tâm trạng của tình yêu đôi lứa. Tâm trạng của người đi hay ở lại cũng đều nặng nề sự lưu luyến, nhớ nhung. Tác giả sử dụng đại từ “ Mình” , “Ta” ở hai đầu câu thơ tạo cảm giác xa xôi, cách biệt, ở giữa là tâm trạng băn khoăn của người ở lạ, không biết bạn còn thủy chung trước bao đổi thay cám dỗ của cuộc sống mới. Câu hỏi tu từ: "Mình có nhớ ta”, “ Mình có nhớ không?” càng làm cho người ra đi thêm lưu luyến, cứ vang lên như một niềm khắc khoải khôi nguôi. Người ở lại nhắc lại kỉ niệm 15 năm kháng chiến gian khổ nhưng nghĩa tình những mong người ra đi đừng cho những ân tình đó quên lãng hay xếp vào quá khứ.
Hai câu sau không còn là tình yêu nữa mà thay thế bằng tình yêu thương gắn bó với mảnh đấtt quê hương Việt Bắc. Nhớ núi, nhớ rừng, thực chất là nhớ ngọn nguồn của cách mạng. Tố Hữu đã sáng tạo và rất linh hoạt trong việc sử dụng 2 chữ “mình” “ta” nhằm thể hiện tình cảm giữa người cách mạng với đồng bào Việt Bắc là vô cùng gần gũi, gắn bó. Cách đối đáp ấy tạo sự hô ứng, đồng vọng từ 2 phía. 4 câu thơ đầu tạo thành 2 câu hỏi rất khéo léo mà mỗ câu hỏi là một khía cạnh khác nhau: thời gian và không gian gói gọn một thời cách mạng, một vùng cách mạng.
Tâm trạng của người ra đi cũng vô cùng nặng nề:
“ Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Từ láy: “ bâng khuâng”, “ bồn chồn” cho thấy được tâm trạng đang rất phức tạp của người ra đi, vừa hụt hẫng, nhớ nhung người ở lại, vừa nóng lòng muốn trở về miền xuôi nhưng còn mang nặng tình cảm người ở lại. Vì cuộc chiến đấu ở phía trước cần phải ra đi nhưng lòng còn nặng nghĩa ân tình không muốn xa rời. Hình ảnh hoán dụ: “Áo chàm” tượng trưng cho đòng bào Việt Bắc – những con người lam lũ, gian khổ nhưng ân tình, thủy chung. Gợi lên lưu luyến, bịn rịn không muốn rời. Cầm tay mà nghẹn ngào không nói. Người ra đi im lặng để tri âm, để tiếng ai từ từ ngân vang lắng sâu vào hồn mình cho thật vẹn tròn đầy đủ. Lặng im nhưng vẫn không kém phần mãnh liệt. Người ở lại nói thiết tha, người nghe thiết tha. Sự hô ứng ngôn từ này tạo sự đồng vọng trong lòng người. Qua đó ta càng thấy được mối ân tình, ân nghĩa của người chiến sĩ cách mạng với đồng bào Việt Bắc.
15 năm gắn bó thân thiết, 15 năm là cả một quãng đường đời dài, kỉ niệm của cuộc sống và sự trưởng thành là nhiều vô kể: Hình ảnh: "mưa nguồn" , "suối lũ" gợi lên bức tranh thiên nhiên hiện thực vừa hoang dại vừa hùng vĩ, vừa hiện thực vừa thi vị, mang nét riêng độc đáo, khác hẳn với những vùng quê khác. Cảnh vật núi rừng Việc Bắc hiện lên với vẻ đẹp vừa hiện thực vừa mơ mộng:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”.
Nỗi nhớ Việc Bắc được so sánh “như nhớ người yêu” thể hiện nỗi nhớ thật da diết, mãnh liệt, cháy bỏng. Điệp từ “nhớ” được đặt ở đầu câu liệt kê ra từng nỗi nhớ cụ thể: nhớ ánh nắng ban chiều, ánh trăng buổi tối, những bản làng mờ trong sương sớm, những bếp lửa hồng trong đêm khuya, những núi rừng, sông suối mang những cái tên thân thuộc. Nỗi nhớ bao trùm khắp cả không gian và thời gian. Nỗi cháy bỏng, khát khao gắn với kỉ niệm thơ mộng của núi rừng. Và đẹp hơn cả là sự hoà quyện thắm thiết giữa cảnh với người:
"Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung"
Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên với vẻ đẹp đa dạng, sinh động, thay đổi theo từng mùa. Mùa đông tươi tắn, không lạnh lẽo với hình ảnh “hoa chuối đỏ tươi”. Mùa xuân trong sáng, tinh khôi và đầy sức sống với “mơ nở trắng rừng". Mùa hè: rực rỡ “Rừng phách đổ vàng”, sôi động với âm thanh “ve kêu”. Mùa thu yên ả, thanh bình, lãng mạn với hình ảnh “trăng rọi hoà bình”, cùng với đó là sự đồng hành bốn mùa yêu thương với những con người ân tình, ân nghĩa. Bằng những việc làm nhỏ bé, đóng góp những sức lực lao động, họ góp phần tạo nên sức mạnh vĩ đại của cuộc kháng chiến.
Trong nỗi nhớ của nhà thơ, đồng bào Việt Bắc hiện lên với những phẩm chất cao đẹp. Hình ảnh đặc biệt: “Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son” nói lên tình cảnh nghèo khổ của người dân nhưng đổi lại, họ lại là những con người giàu về tình nghĩa. Họ là những con người đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi với người cán bộ kháng chiến, họ chính là sức mạnh tiềm ẩn của cuộc kháng chiến.
Bức tranh về thời gian, không gian kháng chiến rộng lớn vô cùng, hơn nữa thiên nhiên có phần khắc nghiệt với “ Mênh mông 4 mặt sương mù”.. Tuy nhiên, sức mạnh để quyết tâm chiến thăng của nhân dân ta cũng to lớn vô cùng. Đó là sức mạnh của lòng căn thù: “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”, đó là sức mạnh của tình nghĩa thuỷ chung: “Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi”, và đặc biệt là sức mạnh của tình đoàn kết toàn dân:
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây.
Núi giăng thành luỹ sắt dày,
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù.
Mênh mông bốn mặt sương mù,
Đất trời ta cả chiến khu một lòng”
Khối đại đoàn kết toàn dân “Đất trời ta cả chiến khu một lòng”, sự hoà quyện gắn bó giữa con người với thiên nhiên "Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây": tất cả tạo thành hình ảnh một đất nước đứng lên tiêu diệt kẻ thù. Tinh thần, khí thế của cuộc kháng chiến là to lớn, hừng hực vô cùng:
"Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung.
Quân đi điệp điệp trùng trùng.
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước đi nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên"
Những hình ảnh không gian rộng lớn, những từ láy "rầm rập", "điệp điệp"," trùng trùng", biện pháp so sánh "như là đất rung", cường điệu "bước chân nát đá", biện pháp đối lập "Nghìn đêm … >< … mai lên"….diễn tả khí thế hào hùng của cuộc kháng chiến chống Pháp, không khí sôi động với nhiều lực lượng tham gia, những hoạt động tấp nập… Âm hưởng hùng ca, mang tính sử thi của đoạn thơ, thể hiện được sức mạnh của cả một dân tộc đứng lên chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Dân tộc ấy vượt qua bao khó khăn, thử thách, hi sinh để đem về những kì tích:
+ “Tin vui thắng trận trăm miền.
Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê,
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”
Vai trò của Việt Bắc trong cách mạng và kháng chiến là to lớn vô cùng:
“Mình về, có nhớ núi non,
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh.
Mình đi mình có nhớ mình,
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.”
Việt Bắc là quê hương của cách mạng, là căn cứ địa vững chắc, là đầu não của cuộc kháng chiến, nơi hội tụ tình cảm, suy nghĩ, niềm tin và hi vọng của mọi người Việt Nam yêu nước.. Việt Bắc là chiến khu kiên cường, nơi nuôi dưỡng bao sức mạnh đấu tranh, nơi khai sinh những địa danh mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc.
Tác phẩm mang đến cho người đọc những cảm xúc tuyệt vời về con người đất nước, thật đáng tự hào về một dân tộc với truyền thống lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước anh hùng, cùng với đó là những con người anh hùng, những con người mang phẩm chất tốt đẹp góp phần tạo nên đất nước của muôn đời.
Minh Tuệ